Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Một thoáng nhìn về những Linh Mục - Khoa Học Gia

Năm Linh Mục : Một thoáng nhìn về những Linh Mục - Khoa Học Gia
“Không có gì xung đột giữa tôn giáo và khoa học cả”. Nhân tiện Năm Linh Mục, chúng ta nhìn qua các linh mục khoa học gia. Ngày 12 tháng 3 năm 2008, Tổ chức John Templeton Foundation loan báo tên người đoạt giải Templeton hàng năm; giải này vinh danh những thành quả đạt được trong lãnh vực liên quan đến những vấn nạn lớn trong cuộc sống con người và vũ trụ. Giải thưởng năm 2008 trị giá 1 triệu 600 ngàn mỹ kim về tay Michal Heller, một nhà vũ trụ học người Ba lan, là giáo sư tại phân khoa triết học Viện Thần học Giáo hoàng tại Cracow, nước Ba lan. Một điều làm cho Heller thêm phần đặc biệt, vì ông là một linh mục Công giáo.
Vị linh mục 72 tuổi này cho biết có dự tính dùng số tiền đoạt giải này để thiết lập một viện nghiên cứu – tên viện nhằm vinh danh nhà thiên văn học Nicholas Copernicus -- với mục đích tìm cách hoà giải giữa khoa học và thần học. Cha phát biểu:
Nếu chúng ta nêu ra câu hỏi về nguyên nhân của vũ trụ, chúng ta nên đặt câu hỏi về nguyên nhân của các luật toán học. Làm như thế, chúng ta trở lại bản vẽ thiết kế lớn lao trong suy tư của Thiên Chúa về vũ trụ; câu vấn nạn về nguyên nhân tối hậu: Tại sao có còn hơn không có? Khi đặt câu hỏi này, chúng ta không hỏi về một nguyên nhân như mọi nguyên nhân khác. Mà chúng ta hỏi về căn cội của mọi nguyên nhân khả thể. Khoa học chỉ là một nỗ lực tập thể của những trí óc con người nhằm đọc được trí óc của Thiên Chúa từ những dấu hỏi xem chúng ta và vũ trụ quanh ta có thể được tạo dựng từ những gì.
Vừa là nhà khoa học, vừa là một linh mục, trường hợp như cha Heller không phải là duy nhất. Hơn thế nữa, ngài đứng trong một truyền thống cao cả và dài lâu những hàng linh mục uyên bác, vừa là những nhà khoa học vừa là những con người của đức tin. Một số trong các ngài được biết đến tường tận trong lịch sử, như Roger Bacon, một tu sĩ Dòng Thánh Phanxicô sống ở thế kỷ 13, người đã nhấn mạnh về quan niệm “luật thiên nhiên” và đã đóng góp vào sự phát triển của khoa cơ giới, địa lý, và đặc biệt là về quang học. Một số khác lại không ai biết tới. Tuy vậy, tất cả đều đã để lại một di sản lâu bền từ thời đại các ngài, về học tập, khoa học, toán học, và những tiến bộ thực tiễn khác.
Trên tất cả, các linh mục-khoa học gia này đã cống hiến một bài học mạnh mẽ cho những nhà biện giải Công giáo: Không có lý do gì phải đứng câm lặng khi tên của Galileo được sử dụng như một chiếc dùi cui để tấn công, và Giáo hội bị chỉ trích nghiêm khắc là kẻ thù của tiến bộ nơi loài người. Các nhà biện giải và các thức giả Công giáo có thể chỉ tay vào những linh mục-khoa học gia này mà tuyên bố hùng hồn như Cha Georges Lemaître – người khám phá ra thuyết “Big Bang” – đã kiên cường tuyên xưng năm 1933: “Không có gì xung đột giữa tôn giáo và khoa học cả.”
Dưới đây chúng tôi lược kê một ít trong số nhiều vị linh mục và khoa học gia đã làm cho thế giới chúng ta tốt đẹp hơn qua bao nhiêu thế kỷ. Danh sách này không có tham vọng được coi là đầy đủ, thấu đáo, và những vấn đề sâu sắc hơn nằm bên dưới cuộc xung đột từ lâu giữa khoa học và tôn giáo, thuyết tiến hóa, và vũ trụ học – xuất hiện rất nhiều trong cuộc tranh cãi về văn hóa hiện đại – sẽ được tìm hiểu trong những dịp khác.
Robert Grosseteste (1175-1253)
Robert Grosseteste, người nước Anh, sinh trưởng tại Suffok trong một gia đình nghèo, nhưng đã trở thành một trong một khuôn mặt bác học nhất ở Anh quốc vì lòng ham hiểu biết, một đức tin sâu xa và một nhân cách khiêm hạ. Ngài được huấn luyện về thần học và sau đó bắt đầu giảng dạy tại Oxford . Nơi trường đại học này ngài gia nhập một hiệp hội cùng với các tu sĩ Dòng Phanxicô mới tới và có lẽ ngài đã có thời gian làm chưởng ấn. Được phong chức giám mục giáo phận Lincoln năm 1235, ngài quan tâm sâu xa về công tác cải tổ Giáo hội tại Anh quốc. Ngài tố cáo các tu viện trưởng tham nhũng hoặc thiếu khả năng, giảm thu nhập của giới giáo sĩ, và lập ra một loạt những quy chế để làm phương châm đặc biệt hướng dẫn tư cách của hàng giáo phẩm và cách quản trị các giáo phận.
Tuy nhiên, những thành quả của ngài trong vai trò một người lãnh đạo Giáo hội đã bị lu mờ trước danh tiếng được coi là một trong số người uyên bác nhất thời đó. Ngài là người mẫn tiệp về toán học, quang học, và khoa học, làm báo hiệu trước các phương pháp thực 
nghiệm sau này của học trò mình là Roger Bacon. Các nhà chép sử khoa học cho rằng ngài là người sáng lập ra phong trào khoa học tại trường Đại học Oxford, và do đó làm phát sinh ra đường lối theo đuổi sự hoàn thiện hoàn mỹ vẫn còn tiếp nối cho tới ngày nay. Một ít trong số những thành đạt của ngài: phẩm bình về cuốn Physics của Aristote, phê bình lịch Julian dẫn đến cuộc cải cách lịch dưới triều Giáo hoàng Gregory XIII vào 300 năm sau, và các luận án về quang học, âm nhạc và toán học. Vì quá nổi danh với tài thiên phú và kiến thức về thế giới thiên nhiên, đến độ ngài cũng nổi tiếng trong giới bình dân ít học; họ coi ngài như một người có tài lạ hoặc như một bậc phù thủy. Ignazio Danti (1536-1586)
Một trong những người kế thừa truyền thống học thuật do Grosseteste khuyến khích là một giám mục người Ý tương đối ít người biết tới: Ignazio Danti. Là con của một người thợ thủ công, ngài sanh tại Perugia và có lẽ theo học tại trường đại học ở đó trước khi gia nhập Dòng Thánh Đa minh năm 1555. Ngài tiếp tục nhận được sự bảo trợ từ những khuôn mặt hàng đầu của thời đại này, trong số đó có Cosimo de'Medici ở Florence và Thánh Giáo hoàng Piô V, Giáo hoàng Gregorio XIII. Vị giáo hoàng sau đặt ngài làm giám mục Alatri. Tại đây, ngài chứng tỏ một nhiệt tình lớn lao muốn xúc tiến việc cải tổ Giáo hội.
Rất giống Grosseteste, ngài quan tâm về nhiều lãnh vực khoa học, trong đó có thiên văn, toán, quang học, kiến trúc, kiến thiết cầu đường, thủy lực và đồ bản. Ngài đặc biệt nổi danh về kiến thức và tài trí của một nhà thiên văn. Năm 1574, ngài thực hiện một loạt những quan sát quan trọng và tìm ra phân điểm (xuân phân và thu phân) 11 ngày sớm hơn qui định trong lịch. Do đó ngài giữ một vai trò trong việc cải tạo lịch Julian dưới triều Giáo hoàng Gregory XIII. Nhưng Danti đã để lại dấu ấn thực của mình trong vai trò một nhà đồ bản. Cosimo de'Medici đã đặt ngài vẽ các bản đồ và làm một trái cầu thiên thể lớn trong bộ sưu tập của ông. Ngài cũng nhận lời Giáo hoàng Piô V để vẽ họa đồ vùng Perugia , và lời Giáo hoàng Gregory XIII để vẽ bản đồ các vùng lãnh thổ thuộc giáo hoàng. Những bản đồ ngài vẽ hiện nay vẫn còn nhìn được trên những bích họa lớn trong Palazzo Vecchio ở Florence và trên các bức tường của La Galleria delle Carte Geografiche trong điện Belvedere thuộc Tòa thánh Vatican. Sau chót, Danti đã hoàn thiện rado latino, một dụng cụ đo đạc, và đã vẽ họa đồ một kinh đào xuyên ngang nước Ý, chảy qua Florence , nối liền biển Adriatic và Địa trung hải.
Marin Mersenne (1588-1648)

Linh mục người Pháp Marin Mersenne bắt đầu một sự nghiệp lâu dài tại ngôi trường Dòng Tên mới lập tại La Flèche, nơi duy nhất lúc đó cho các học sinh nghèo được theo học. Trong số bạn học có cậu bé René Descartes mới lên 8 tuổi, sau này sẽ trở thành một triết gia, nhà toán và vật lý học, bạn của Mersenne. Năm 1611, Mersenne gia nhập Dòng Minims (dòng Anh em Hèn mọn do thánh Phanxicô Paola sáng lập) và thụ phong linh mục một năm sau đó. Sau khi nghiên cứu học tập về thần học, ngài nổi danh trong giới triết gia và thần học về những công trình hăng say chống chủ thuyết vô thần và chủ thuyết hữu thần tự nhiên (deism). Tuy nhiên, lịch sử lại ghi nhớ đến ngài nhiều nhất về công trình trong khoa toán, đặc biệt là cái gọi là các số nguyên Mersenne, và nỗ lực của ngài để tìm ra một công thức có thể trình bầy mọi số nguyên tố.
Trong tác phẩm La vérité des sciences (Sự thật về các khoa học), ngài biện bác về giá trị của lý trí con người. Ngài giao tiếp thư từ với những khuôn mặt tiến bộ nhất lúc đó, như Pierre Gassendi, René Descartes, Pierre de Fermat, Thomas Hobbes, và Blaise Pascal. Ngài tổ chức đàm trường dành cho các nhà khoa học khắp cả châu Âu để đọc các luận văn của họ và trao đổi các ý kiến. Những công trình quy tụ này được biết đến dưới cái tên Académie Parisiensis, nhưng cũng còn được gọi là Académie Mersenne, và con số những nhà khoa học mà sự nghiệp được đàm trường này hướng dẫn thật không thể đánh giá thấp. Giữ lời cam kết phục vụ cho khoa học, ngài để lại chỉ thị trong di chúc dùng thân xác ngài cho các cuộc nghiên cứu.
Jean-Felix Picard (1620-1682)

Là người đồng thời với Mersenne, tu sĩ Dòng Tên người Pháp Jean-Felix Picard đạt được danh hiệu là người sáng lập khoa thiên văn hiện đại ở Pháp, đồng thời cũng là một linh mục nhiệt tâm. Ngài sanh tại La Flèche, và học trường Đại học Hoàng gia Henry-Le-Grand của Dòng Tên tại đây. Ngay từ thuở còn niên thiếu, ngài đã say mê các thiên thể trên bầu trời, và sau này đã cống hiến cuộc đời trí thức của mình để phụng sự khoa thiên văn học. Picard đã đưa ra những phương pháp mới để quan sát các vì sao và cải tiến những dụng cụ khoa học mới.
Picard là người đầu tiên trong thời đại Khai minh (Enlightenment) đã đưa ra một số đo chính xác về kích thước của Trái đất qua cuộc thăm dò thực hiện vào những năm từ 1669 đến 1670. Tính toán của ngài về đường bán kính của trái đất là 6328.9 kilomet chỉ sai lạc 0.44%, và sự tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ của ngài về các dụng cụ đã chứng tỏ là điều tối cần trong việc lập ra lý thuyết về trọng lực trong vũ trụ của Isaac Newton. Picard cũng còn hoạt động và giao tiếp với một số lớn các nhà khoa học thời đó, như Isaac Newton, Christian Huygens, và cả với một đối thủ lớn nữa là Giovanni Cassini.
Ngài được người đương thời kính trọng sâu xa nhưng bị lu mờ vì những tên tuổi lớn như Galileo, Newton , và Cassini. Ngài là sáng lập viên Hàn lâm viện Pháp năm 1666. Năm 1935 ngài được tôn vinh bằng việc dùng tên ngài đặt cho một hố trên mặt trăng. Một vinh dự thấp hơn được trao vào năm 1987, khi tên ngài được dùng để đặt cho Captain Jean-Luc Picard trong show truyền hình Star Trek: The Next Generation.
Grgor Mendel (1822-1884)

Dĩ nhiên được nổi danh hơn Picard rất nhiều, đó là Gregor Mendel, Tu viện trưởng Dòng Thánh Augustine, cha đẻ của khoa di truyền học hiện đại. Sinh tại nước Áo trong một gia đình nông dân, ngài nhập Dòng Thánh Augustine năm 1843 và 4 năm sau được thụ phong linh mục. Sự nghiệp của Mendel gần như không được báo trước trong cuộc đời, và đã hoàn thành được công trình vĩ đại trong hoàn cảnh tối tăm khi giảng dạy môn khoa học tự nhiên tại một ngôi trường trung học dành cho nam sinh ở nước Áo. Quả vậy, chỉ vào những năm cuối đời, ngài mới được lên chức tu viện trưởng.
Mendel có được địa vị trong khoa học là do công trình ngài thực hiện với những cây đậu quả tầm thường. Ngài thích đi bách bộ chung quanh tu viện và nhận xét thấy có mấy thứ cây cỏ khác biệt căn bản về hình dạng và mô thức tăng trưởng. Cũng nhứ bất cứ một học sinh trung học thời nay nào có thể học biết, Mendel đã trải nghiệm bao nhiêu năm để quan sát 7 đặc tính của loại cây đậu quả và xác định được những luật căn bản chi phối sự di truyền các đặc tính trong phạm vi một loài. Đặc biệt quan trọng là sự khám phá ra các genes trội (dominant) và lặn (recessive ), đó là một chìa khoá mở ra cho khoa di truyền học hiện đại, và cuộc nghiên cứu về các đặc tính trội và lặn, kiểu di truyền (genotype) và kiểu hiện tượng (phenotype), ý niệm về dị hợp tử (heterozygous) và đồng hợp tử (homozygous). Buồn thay, Mendel đã đi trước thời đại của ngài quá xa đến nỗi mãi tới đầu thế kỷ 20 khoa học mới công nhận công lao đóng góp của ngài. Ngày nay, ngài được nổi tiếng khắp toàn cầu và thường các học sinh không mấy thích thú khi phải làm các thí nghiệm riêng của họ dựa trên công trình của ngài.
Armand David (1826-1900)

Vào khoảng cùng thời gian Mendel đi bách bộ quanh tu viện, nhà truyền giáo thuộc Dòng Lazarist, cha Aramnd David, đồng thời cũng là một nhà thực vật học, đang làm việc ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất, đó là Trung quốc. Sinh quán tại Bayonne, nước Pháp, ngài gia nhập Tu đoàn Truyền giáo năm 1848 và thụ phong linh mục năm 1862. Được sai đi truyền giáo tại Bắc kinh, ngài đã phục vụ trong cộng đồng nơi đây một cách xuất sắc. Ngài thấy thời gian ở Trung quốc là một cơ hội tốt đẹp để khảo sát về các khoa học tự nhiên.
Vì những phát hiện của ngài trong các lãnh vực về động vật học, thực vật, địa chất và cổ sinh vật học, chính phủ Pháp yêu cầu ngài gửi các mẫu tìm kiếm được về Paris để được nghiên cứu thêm. Những mẫu này, lần đầu tiên được người phương Tây chứng kiến, đã tạo ra mối quan tâm lớn lao đến độ cha David được các nhà khoa học nước Pháp yêu cầu thám hiểm nước Trung hoa để tìm ra các phát kiến mới. Khi trở về Pháp năm 1888, ngài đọc một bài diễn từ thời danh tại Hội nghị Khoa học Quốc tế của người Công giáo tổ chức tại Paris, trình bầy tài liệu nghiên cứu của ngài về hơn 60 chủng loại thú vật và hơn 60 loại chim muông, tất cả đều chưa được biết đến trước đó. Đặc biệt đáng quan tâm là “phát kiến” của của ngài về loài Gấu trúc Lớn (Giant Panda, chưa được châu Âu biết tới) và loại Nai Milu (Milu Deer), một loài nai mà sau này được gọi là Nai Cha David (Père David’s Deer - Elaphurus davidianus) để vinh danh ngài.
Julius Nieuwland (1878-1936)

Linh mục Julius Nieuwland thuộc Dòng Thánh giá, đã quan tâm về các giải đáp thực tiễn trong lãnh vực hóa học mà ngài nghiên cứu. Con của người di dân gốc Bỉ, Nieuwland sinh trưởng tại vùng South Bend , tiểu bang Indiana , và theo học trường Đại học Notre Dame. Thụ phong linh mục năm 1903, ngài tiếp tục học tại trường Đại học Công giáo Mỹ (The Catholic University of America), chuyên khoa về thực vật và hóa học.

Trở lại trường Notre Dame năm 1904, ngài phục vụ trong ban giảng huấn, làm giáo sư dạy môn thực vật và sau đó là môn hóa học cho mãi tới khi về hưu năm 1936. Trong những sảnh đường yên tĩnh, khi nghiên cứu về khoa học, ngài đã thành công trong việc polymer-hóa chất acetylene để trở thành divinylacetylene. Elmer Bolton, giám đốc nghiên cứu tại hãng Dupont, đã dùng nghiên cứu căn bản này để đạt được việc phát triển ra neoprene. Trong thực tế, chính vị linh mục khiêm tốn này là người tìm ra được chất cao su nhân tạo đầu tiên. Được Công ty Du Pont áp dụng, phát minh này có ảnh hưởng to lớn trên nhiều ngành kỹ nghệ và cuộc sống của chúng ta. Chẳng hạn, neoprene được dùng làm chất cách điện/cách nhiệt trong dây điện, đường dây điện thoại, mặt sau các tầm thảm, và vật dụng lợp mái nhà. Cha Nieuwland cũng gần như tạo được một ảnh hưởng lớn trên lịch sử ngành football các trường đại học, khi ngài cố gắng – nhưng bất thành – thuyết phục người huấn luện viên lừng danh trong tương lai tại trường Notre Dame là Knute Rockne trở thành một nhà hóa học thay vì làm huấn luyện viên môn thể thao này.

Không xao lãng khoa thực vật học, cha Nieuwland đã lặn lội trong những vùng sình lầy và rừng rú, tìm kiếm những mẫu thích hợp để nghiên cứu, và ngài nổi danh vì đã dùng súng lục bắn những mẫu này rớt từ những cành cây cao xuống đất.
Vì sự nghiệp trong ngành hóa học, chứ không phải tài thiện xạ, ngài được trao huân chương Morehead Medal vì công trình nghiên cứu chất acetylene, huân chương American Institute Medal, và vinh dự cao quý nhất của Hiệp hội Hóa học Hoa kỳ (American Chemical Society) là huân chương Nichols Medal.
Georges Lemaître (1894-1966)

Cha Georges Lemaître, một linh mục người nước Bỉ, một nhà vật lý và toán học gia, là người đầu tiên đề ra Lý thuyết Big Bang để giải thích sự ra đời của vũ trụ. Sinh tại Charleroi, nước Bỉ, ngài học toán và khoa học tại trường Đại học Cambridge sau khi chịu chức linh mục năm 1923, và chuyên khoa về các nghiên cứu rất thịnh hành thời đó trong khoa thiên văn và vũ trụ học, đặc biệt về lý thuyết tương đối tổng quát của nhà bác học Eisntein.
Trong ngành vật lý, cái ý tưởng lúc đó được chấp nhận là vũ trụ, về bản chất, ở trong tình trạng không thay đổi, một “Tình trạng Kiên định (Steady State)”. Trong khi Einstein coi vũ trụ đang thực sự chuyển động – co cụm hoặc phình nở -- và nghĩ ra được hằng số vũ trụ học đã duy trì được tình trạng ổn định của vũ trụ, thì Lemaître lại kết luận rằng vũ trụ đang phình ra. Không chỉ như thế, Lemaître còn đề xuất rằng từ điểm đó có thể kết luận rằng mọi vật chất và năng lượng đã có lúc tập trung tại một điểm. Do đó: Vũ trụ đã có một lúc khởi đầu.
Lý thuyết này, lúc đầu gặp phải nhiều hoài nghi, được mệnh danh một cách châm biếm là “Big Bang”. Về phần mình, Lemaître mô tả một cách hoa mỹ sự khởi đầu này là “một ngày không có hôm qua.” Tháng giêng năm 1933 ngài trình bầy lý thuyết này trước cuộc hội họp các nhà khoa học tại tiểu bang California, và vào cuối buổi trình bầy, Einstein đã khen ngợi và tuyên bố: “Đây là cách giải thích về sự sáng tạo vũ trụ đẹp đẽ và thỏa mãn hết sức mà tôi được nghe từ trước đến giờ.” Những ý tưởng của Lemaître sau đó đã có được thế đứng.
Ngày nay các nhà vật lý vũ trụ sẵn sàng chấp nhận thuyết Big Bang và sự tiếp tục bành trướng của vũ trụ. Vì những công lao này, Lemaître được gia nhập Hàn lâm viện Hoàng gia Bỉ, và lên chức kinh sĩ (canon) nhà thờ chính tòa Malines . Năm 1936, Giáo hoàng Piô XI nhận ngài vào Hàn lâm viện Giáo hoàng về Khoa học.
Stanley Jaki (1924-2009)

Các linh mục Nieuwland và Lemaître đã chứng tỏ rằng đức tin và khoa học không bất tương hợp. Còn linh mục Stanley Jaki, thuộc dòng Biển đức, lại đã lý luận một cách rất hùng biện rằng chính khoa học chỉ có thể phát triển được trong một nền văn hóa Kitô giáo. Với những thành quả đạt được, ngài đã được tưởng thưởng giải Templeton, và năm 1990 được Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận cho gia nhập Hàn lâm viện Giáo hoàng về Khoa học.

Sinh trưởng tại Hung gia lợi (Hungary), cha đậu các cấp bằng tiến sĩ về Thần học Hệ thống (Systematic Theology) và về Vật lý Hạt nhân, thông thạo 5 ngôn ngữ và là tác giả 30 đầu sách. Là một Giáo sư ưu tú tại trường Đại học Seton Hall, công trình của cha Jaki về lịch sử và về triết học khoa học đã đưa ngài gặp gỡ nhiều người trên khắp thế giới. Trong một thế giới khoa học tân tiến đạt được đỉnh cao trong triết học thời Khai minh (Enlightenment) và rất mục chống đối sự liên hệ với tôn giáo, sự khẳng định của cha Jaki rằng khoa học và tôn giáo đều phù hợp, và rằng sự phân tích khoa học có thể rọi ánh sáng vào cả những đề cương khoa học lẫn thần học, quả là một khẳng định táo bạo.

Theo quan niệm của Jaki, những khám phá về khoa vật lý hạt nhân và khoa thiên văn đã xác nhận một trật tự thiết yếu trong vũ trụ. Tuy sự hiểu biết của chúng ta về cả hai lãnh vực đều quả thực còn chưa đầy đủ, nhưng viễn kiến Kitô giáo chứng tỏ rằng trật tự của vũ trụ thì hoàn toàn phù hợp với quan điểm về sự Sáng tạo vũ trụ theo Kinh thánh.
Đi theo dấu chân của Lemaitre, Jaki đã tìm cách giải quyết một trong những vấn nạn lớn lao nhất trong khoa học, vũ trụ học, và đã kết luận rằng khoa học cho phép chúng ta có một cái nhìn vào trong những biến cố tiếp theo sau giây phút sáng tạo, nhưng không cho biết điều gì hết về những gì đã xảy ra trước đó, lúc mà chính vật chất được tạo dựng từ hư không. Do đó mà ngài can đảm thách thức các khẳng định của các nhà vũ trụ học và vật lý học thiên thể như Stephen Hawking, cho rằng nguồn gốc của vũ trụ chứng tỏ sự bất hiện hữu của Thiên Chúa; trái lại, chính cái mệnh đề đó không thể chứng minh được bằng khoa học vì không có gì để quan sát cả. Đồng thời, trật tự tạo dựng của Thiên Chúa phản ảnh một đấng Sáng tạo hoàn toàn hợp lý và bất tận vượt trên đường lối suy nghĩ của chúng ta. Thế nên, không mấy ngạc nhiên khi một tiến độ quân bình và tích cực như thế đi vào thế giới tự nhiên được tìm thấy trong giảng huấn và văn hóa Kitô giáo chân chính, đã cho phép khoa học được nở rộ.
Michal Heller (1936- )

Những vấn nạn lớn lao về vũ trụ cũng là địa hạt chuyên biệt của vị linh mục Ba lan đồng thời cũng là một nhà vật lý học: Michal Kazimierz Heller, giáo sư dạy tại Cracow, nước Ba lan, và là thành viên Viện Khoa học Giáo hoàng từ năm 1990. Cha Heller đã dấn thân đi vào những lãnh vực cao nhất của toán học và thiên văn. Hiện nay cha đang nghiên cứu vấn đề đơn thuần (singularity) trong tương đối tổng quan (general relativity) và sự dùng khoa hình học không giao hoán (non-commutative) khi tìm kiếm việc kết hợp giữa tương đối tổng quan với cơ học lượng tử (quantum mechanics). Ngài cũng quan tâm về triết học, lịch sử khoa học, khoa học và thần học. Theo quan điểm của cha, tất cả những mặt khác biệt nhau này của khoa học đều qui tụ về một điều gì đó thật quan trọng liên quan đến “bản thiết kế” của sự Sáng tạo vũ trụ -- và giảng huấn của Giáo hội giúp chúng ta hiểu được bản vẽ đó.

Cơ may hay Mục đích?
Các linh mục-khoa học gia, những người vừa trung thành với các giảng huấn của Giáo hội và với những khắt khe gian khổ của khoa học, đã chiếm được một chỗ đáng tôn trọng trong lịch sử kiến thức, như nhận xét sau đây của Hồng y Christoph Schönborn:
Một trong những “huyền thoại” dai dẳng của thời đại chúng ta – thực ra, tôi muốn nói đến một trong những thiên kiến hình thành từ lâu – cho rằng những mối liên hệ giữa khoa học và Giáo hội là xấu, rằng đức tin và khoa học, từ những thời đại đã qua, tồn tại trong một thứ xung đột triền miên… Tin rằng Thiên Chúa là đấng Sáng tạo vũ trụ không chỉ là một trở ngại mà hơn thế, còn ngược lại. Tại sao tin rằng vũ trụ có một đấng Sáng tạo lại làm cản trở con đường của khoa học? Tại sao nó gây ra những khó khăn cho khoa học, nếu các khoa học gia hiểu biết rõ cuộc nghiên cứu của họ, phát kiến của họ và những lý thuyết họ đề ra, sự hiểu biết của họ về những mối liên hệ, như là “nghiên cứu học tập cuốn sách về sự tạo dựng vũ trụ?

Nguồn: Matthew E. Bunson/"Fathers of Science.” This Rock ( San Diego : Catholic Answers Inc., September 2008).
Phụng Nghi

NHỮNG CÔNG TRÌNH MÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CỐNG HIẾN CHO NHÂN LOẠI

(By Fr Andrew Pinsent, on Friday, 6 May 2011) Chủ nghĩa thế tục hóa và chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân được cổ súy mỗi ngày một mạnh mẽ qua các phương tiện truyền thông của thời kỹ thuật số đang tìm cách hạ uy tín của Giáo Hội Công Giáo – chứng nhân của Chân Lý, Hy Vọng và Niềm Hạnh Phúc Vĩnh Hằng - là khuynh hướng của thế giới ngày hôm nay. Nhân loại không biết rằng, nền văn minh tiến bộ ngày hôm nay họ đang hưởng dùng đều bắt nguồn từ Giáo Hội Công Giáo như người tiên phong mở đường đưa họ đến những chân trời mới lạ… Bài viết dưới đây của Cha Andrew Pinsent cho thấy điều đó…
(Nhà vật lý Stephen Hawking gặp Đức Giáo Hoàng Benedict XVI tại buỗi gặp gỡ các nhà khoa học tại Vatican)
(Nhà vật lý Stephen Hawking gặp Đức Giáo Hoàng Benedict XVI tại buỗi gặp gỡ các nhà khoa học tại Vatican)
Cha Andrew Pinsent, tác giả của bài viết này, là một Linh Mục của giáo phận Arundel và Brighton và là Giám Đốc Nghiên Cứu của Trung tâm Khoa Học và Tôn Giáo Ian Ramsey tại Đại học Oxford. Cha nguyên là một nhà vật lý phân tử tại CERN [1]. Cha cũng là người đồng sáng lập cùng với Cha Marcus Holden, thành lập Dự Án Rao Giảng Tin Mừng (Evangelium Project), nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục Công giáo. (Xin tham khảo thêm website của dự án này ở www.evangelium.co.uk.)

Giới thiệu

Tại một cuộc tranh luận gần đây được BBC phát sóng trên toàn thế giới, có hơn 87 phần trăm khán giả đã bác bỏ quan điểm cho rằng Giáo Hội Công Giáo là một tổ chức tích cực trên thế giới. Mặc dù những người bênh vực Giáo Hội ra sức đương đầu với những thách thức, khó khăn của chiều kích toàn cầu hóa và hưởng thụ hóa, tuy thế, phần lớn dư luận cho rằng cuộc bình chọn trên phản ánh một thái độ thay đổi đối với Kitô Giáo nói chung và niềm tin Công Giáo nói riêng. Nói thẳng ra không cần úp mở, trong thời gian trước đây, mọi người xem Giáo Hội chúng ta tốt đẹp, còn bây giờ, chúng ta ngày càng bị xem là xấu xa, tiêu cực. Kết quả là, việc giảng dạy đức tin và bảo vệ đạo đức Kitô Giáo thật sự đã trở nên khó khăn hơn nhiều tong thời đại hôm nay.

Để giải quyết thách đố trên nơi chính gốc rễ của nó, tôi tin rằng đây là điều tối quan trọng, là chúng ta phải luôn tự nhắc nhở chính mình về niềm tin Công giáo là một thực tại tốt đẹp trên thế giới. Chúa Giêsu nói: "Người ta sẽ biết các con bằng hoa trái việc làm của các con”, và thậm chí cả một số người ở bên ngoài Giáo Hội đánh giá rất cao thành quả mà Giáo Hội có được. Trong năm 2007, ví dụ, một doanh nhân vô thần, ông Robert Wilson, đã tặng 22.500.000 $ (tức khoảng 13.500.000 £) cho việc giáo dục Công giáo tại New York, và ông cho rằng, "không có Giáo Hội Công Giáo, sẽ không có nền văn minh phương Tây."

Lấy cảm hứng từ cái nhìn sâu sắc của doanh nhân vô thần Robert Wilson, gần đây tôi đã làm việc chung với cha Marcus Holden, linh mục chánh xứ của Ramsgate và là tuyên úy tại Maryvale, bằng cách đối chiếu những đóng góp đặc biệt mà văn hóa và tinh thần Công giáo mang lại cho con người. Những phần dưới đây cho thấy sự đóng góp này thật là vô giá mà bất kỳ ai cũng đều phải chân nhận điều đó khi phải đối mặt với câu hỏi: " Giáo Hội đã từng làm cho chúng ta những điều gì?”

Để hiểu hơn về những thành quả mà Đức Tin Công giáo đã mang lại cho nhân loại trong nhiều lĩnh vực khác, xin các bạn xem tác giả Lumen: “Quà Tặng Công Giáo cho Nền Văn Minh” (The Catholic Gift to Civilization), được Hội Sự Thật Công Giáo xuất bản vào tháng 1 năm 2011.

1. Ánh sáng và vũ trụ

Tác phẩm nổi tiếng Maius Opus (năm 1267) [2] của một thầy dòng Thánh Phanxico, Thầy Roger Bacon, (mất năm 1292), được viết theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clement IV, bắt đầu khai mở một khoa quang học truyền thống trong thế giới La-tinh. Những cặp kính đeo mắt đầu tiên đã được phát minh ở Ý vào khoảng năm 1300, và một trong những ứng dụng của thấu kính đó sau này được phát triển thành kính viễn vọng và kính hiển vi.

Rất nhiều người nghĩ Galileo (chết năm 1642) do bị bức hại, họ có xu hướng không quan tâm đến những hoàn cảnh đặc thù của sự kiện này, thực tế là nhà bác học Galileo không bị hành hình và bị thiêu chết trên giàn hỏa, nhưng nhà bác học đã chết trên giường, và con gái của nhà bác đã trở thành một nữ tu.

Lịch Gregorian (được phát kiến năm 1582), nay được sử dụng trên toàn thế giới, là một thành quả phát minh bởi nhà thiên văn học Công giáo, và công trình vật lý thiên văn nghiên cứu quang phổ do Cha Angelo Secchi (mất năm 1878) đã phát minh và để lại cho nhân loại.

Công trình đáng kể nhất về nghiên cứu vũ trụ, đó chính là vụ nổ Big Bang, một lý thuyết quan trọng nhất của vũ trụ học hiện đại, được phát minh bởi một linh mục Công giáo, Cha Georges Lemaitre (mất năm 1966), thực tế về phát minh lịch sử này, đài BBC gần như không bao giờ đề cập, hay được nói đến trong các sách khoa học phổ biến.

2. Trái đất và Thế Giới Tự Nhiên

Nền văn minh Công giáo đã góp phần đáng kể vào việc tầm tra khoa học và vẽ bản đồ của trái đất, do Giáo Hội Công Giáo khích lệ những nhà thám hiểm thế giới vĩ đại như Marco Polo (mất năm 1324), Hoàng tử Henry the Navigator (mất 1460), Bartolomeu Dias (mất năm 1500), Christopher Columbus (mất năm 1506 ) và Ferdinand Magellan (mất năm 1521). Chẳng những không tin vào lý thuyết thế giới bằng phẳng như cái dĩa (một huyền thoại phát minh ra trong thế kỷ 19), những nhà thám hiểm người Công giáo này còn mang đến cho nhân loại một bản đồ khoa học đầu tiên: bản đồ Padrón Real của Diogo Ribeiro (mất năm 1527). Cha Nicolas Steno (mất năm 1686) là người sáng lập của các môn địa tầng học, giải thích các tầng lớp đá là một trong những nguyên tắc về địa chất học.

Nhà bác học Jean-Baptiste Lamarck (mất năm 1829), một người Công giáo Pháp, lập ra lý thuyết đầu tiên của sự tiến hóa, bao gồm những khái niệm về sự biến đổi của các loài và sự liên hệ giữa các loài thể hiện qua cây phả hệ. Tu sĩ Augustine Gregor Mendel (mất năm 1884) lập ra khoa di truyền học dựa trên việc nghiên cứu tỉ mỉ các đặc tính di truyền của khoảng 29.000 loại thực vật họ đậu

3. Triết học và Thần học

Công Giáo xem triết học, theo như bản chất của chính bộ môn này, thật thích hợp và có ích lợi cho việc phát triển trí năng đồng thời là một thành phần không thể thiếu được để xây dựng môn thần học là môn học ứng dụng lý trí  để có thể lãnh hội được những thực tại thuộc thế giới siêu nhiên. Những cây đại thụ của triết học Công Giáo có Thánh Augustine (mất năm 430), Thánh Thomas Aquinas (d 1274), Thánh Anselm (mất năm 1109), Chân Phước Duns Scotus (mất 1308), triết gia Suárez (mất 1617) và triết gia Blaise Pascal (mất 1662). Những triết gia Công Giáo gần đây có Thánh Edith Stein (mất năm 1942), triết gia Elizabeth Anscombe (mất 2001) và triết gia Alasdair MacIntyre… Trên cơ sở đó, Công Giáo tin tưởng Thiên Chúa là Thiên Chúa của lý trí và tình yêu. Người Công giáo đã bảo vệ tính vẹn toàn của con người đối với thế giới vật chất, nguyên lý nền tảng của sự hiện hữu của thế giới sinh vật và vật chất, nguyên nhân tối hậu của những hành động, ý chí tự do, vai trò của các nhân đức trong vấn đề hạnh phúc, mục đích tốt và xấu, luật tự nhiên và nguyên tắc tương hợp - không mâu thuẫn. Những nguyên tắc này đã có một ảnh hưởng khôn lường trên đời sống trí thức và văn hóa của nhân loại cho dến ngày hôm nay.

4. Giáo dục và hệ thống các trường đại học

Có lẽ sự đóng góp lớn nhất và độc đáo nhất về giáo dục mà Công Giáo mang lại cho nền văn minh nhân loại là sự phát triển của hệ thống trường đại học. Các trường đại học Công Giáo có sớm nhất bao gồm Đại Học Bologna (thành lập năm 1088); Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224) và Đại Học Vercelli (1228). Đến giữa thế kỷ 15 (hơn 70 năm trước khi thời kỳ Cải Cách), đã có trên 50 trường đại học Công Giáo ở châu Âu.

Rất nhiều trường trong số các trường đại học này, chẳng hạn như Đại Học Oxford, vẫn còn đó những dấu hiệu nguồn gốc Công Giáo của mình, ví dụ như cái huy hiệu bốn cạnh tượng trưng cho Thánh Giá được treo trên khắp các hành lang quanh Đại Học giống như trong các tu viện, lối kiến trúc Gothic và rất nhiều nhà nguyện. Ngay từ thế kỷ thứ sáu, Công Giáo ở Châu Âu đã hình thành và phát triển một hệ thống giáo dục mà sau này được gọi là trường học ngữ pháp, và trong thế kỷ 15, hệ thống in ấn báo chí được phát triển và ứng dụng trong các trường học và đã mang lại những lợi ích khôn lường cho việc giáo dục. Ở thời điểm hiện tại ngày hôm nay, người ta ước tính rằng các trường học Công Giáo đang giáo dục và đào tạo cho hơn 50 triệu sinh viên trên toàn thế giới.

5. Nghệ thuật và kiến trúc

Niềm tin vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ngôi Lời mang lấy xác thể, và Hy Tế của Thánh Lễ đã trở nên nguồn cảm hứng bất tận làm phong phú cho việc Giáo Hội Công Giáo đóng góp cách đặc biệt vào lãnh vực nghệ thuật và kiến trúc. Những đóng góp này bao gồm: các Đại Thánh Đường ở Rô-ma; các tác phẩm của Giotto (mất 1337), người đã khởi xướng chủ nghĩa hiện thực trong hội họa qua các bức tranh “Những Chặng Đàng Thánh Giá của Anh Em Tu Sĩ Dòng Thánh Phan-xi-cô”, đã truyền cảm hứng cho loại hình nghệ thuật ba chiều và phim truyền hình, kịch nghệ ngày nay; việc phát minh loại hình hội họa nghệ thuât phối cảnh không gian ba chiều xuất phát từ một điểm quy chiếu mà ta gọi là điểm tuyến tính phối cảnh do một người Công Giáo tìm ra, đó là họa sĩ Brunelleschi (mất năm 1446); và các công trình nổi tiếng của thời kỳ Phục Hưng vẫn còn đó trong các viện bảo tàng ở Châu Âu.

Loại thứ hai bao gồm các tác phẩm của Chân Phước Fra Angelico (mất năm 1455), mà hôm nay người ta chọn làm vị thánh bảo trợ nghệ thuật; và công trình vô song của danh họa Leonardo da Vinci (mất 1519), danh họa Raphael (mất 1520), danh họa Caravaggio (mất 1610,), danh họa Michelangelo ( mất 1564) và danh họa Bernini (mất 1680). Rất nhiều công trình nghệ thuật của những nghệ sĩ này, chẳng hạn như bức họa trên trần nhà nguyện Sistine, được coi là một trong những công trình nghệ thuật lớn nhất của mọi thời đại. Giáo Hội Công Giáo cũng để lại các thể loại hình tổng thể kiến trúc rất độc đáo, ví dụ như kiểu Byzantine, kiểu xây dựng Romanesque, kiểu kiến trúc Gothic, kiểu nhà thờ Phục Hưng và kiểu kiến trúc Baroque. Bức tượng Chúa Ki-tô Cứu Thế (Cristo Redentor) [4] ở Brazil và Vương Cung Thánh Đường Sagrada Familia ở Barcelona cho thấy rằng đức tin Công Giáo vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng bất tận cho nền nghệ thuật và kiến trúc truyền thống mọi thời.

6. Pháp Luật và Luật Học

Những cải cách của Đức Giáo Hoàng Gregory VII (mất năm 1085,) cũng tạo nên động lực để hình thành những bộ luật của Giáo Hội và của các quốc gia Châu Âu. Việc ứng dụng những nguyên tắc của triết học vào pháp luật, cùng với các công trình nghiên cứu rất đáng trân trọng của các tu sĩ ở thế kỷ thứ 12, đã tạo ra một bộ luật hoàn chỉnh và có tính khoa học đầu tiên mà trong đó tất cả điều khoản, các phần được xem như là tương hợp với nhau trong một tổng thể chung. Cuộc cách mạng này dẫn đến việc thành lập các trường luật, bắt đầu tại trường Đại Học Bologna (1088), từ đó nghề luật sư nổi lên, và khái niệm như "tổ chức pháp nhân", “cơ quan”, “tổ chức”… rồi đến các cơ sở pháp lý của một loạt các cơ quan chẳng hạn như các trường đại học, các công ty và quỹ tín thác… xuất hiện trong vài thập niên cách đây…. Những nguyên tắc pháp lý như "thiện ý", tôn trọng quyền lợi, bình đẳng trước pháp luật, luật pháp quốc tế, xét xử, bồi thẩm đoàn, lệnh đình chỉ bắt giam, và việc bắt buộc phải chứng minh sự hồ nghi tội phạm vượt quá khả năng phạm tội… đó là tất cả những thành quả của nền văn minh và khoa luật pháp mà Công Giáo mang đến cho thế giới.

7. Ngôn Ngữ

Việc nhấn mạnh tiếng Hy Lạp và tiếng La-tinh trong truyền thống Công Giáo đã tạo ra nhiều thuận lợi cho việc phổ biến khả năng đọc viết cho mọi người, vì khi bảng chữ cái được phát minh thật sự đã làm cho việc đọc và viết dễ dàng hơn so với ngôn ngữ mang nhiều biểu tượng, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc. Sự mở rộng công việc truyền giáo mà Giáo Hội Công Giáo có nhiệm vụ phải thực hiện theo lệnh Chúa Giê-su, và những cuộc thăm dò, thám hiểm đã làm cho bảng chữ cái Latinh được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống chữ viết trên khắp thế giới. Công Giáo cũng phát triển các bản chữ cái tiếng Armenia, Georgia và Cyrillic, và những bản chữ in tiêu chuẩn, như bản Carolingian khổ rất nhỏ ngay từ thế kỷ thứ 9 đến thể kỷ 12, và cả bản chữ in Gothic rất nhỏ (từ thế kỷ 12). Công Giáo cũng tạo nên một cái khung nền cho các tác phẩm văn hoá như Divina Commedia (Thiên Sử Thi do Dante viết) [5], các Cantar de Mio Cid (Câu Chuyện và Truyền Thuyết về Một Quý Tộc thời Trung Cổ) và La Chanson de Roland (Bài Ca của Roland), và rất nhiều tác phẩm bằng tiếng địa phương đã tác động đến sự phát triển của Ý , Tây Ban Nha và Pháp cách đáng kể. Bài Vinh Tụng Ca Công Giáo của Cædmon [6] viết vào thế kỷ thứ bảy được cho là văn bản tiếng Anh cổ lâu đời nhất còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Valentin Haüy (mất năm 1822), anh trai của Abbé Haüy (là một linh mục người phát minh ra tinh thể học), thành lập ngôi trường học đầu tiên cho người mù. Sinh viên nổi tiếng nhất của trường này, Louis Braille (mất năm 1852) [7], đã phát triển một hệ thống chữ cho người mù học mà ngày nay trên toàn thế giới hệ thống chữ dành cho người mù này mang tên ông.

8. Âm Nhạc

Xuất phát từ âm nhạc phụng tự của những người Do Thái từ thời Cựu Ước, Công giáo hầu như phát minh ra nền văn minh truyền thống âm nhạc phương Tây. Thể loại Bình Ca Đơn Âm Gregorian (Monophonic Gregorian chant) dùng trong phụng vụ Rô-ma phát triển từ thế kỷ thứ sáu. Những phương pháp ký âm giai điệu đã làm phát sinh ra những khái niệm âm nhạc (như ký hiệu khuông nhạc) mang đến những lợi ích không đếm xuể cho việc ghi chép các tác phẩm âm nhạc, và hệ thống thang âm “ut-re-mi” (do-re-mi) là công trình của một tu sĩ dòng Benedictine, Thầy Guido of Arezzo (mất năm 1003 ). Từ thế kỷ thứ 10 các trường phái thánh ca phát triển âm nhạc đa âm, sau này mở rộng đến 40 giọng (Tallis, Spem in Alium) và thậm chí đến 60 giọng (Striggio, Missa Sopra Ecco).

Các thể thể loại âm nhạc mà hầu như phần lớn, hoặc toàn bộ đều bắt nguồn từ nền văn minh Công Giáo bao gồm các bài thánh ca, các thể loại diễn xướng và nhạc kịch opera. Nhạc sư Haydn (mất 1809), một người Công giáo mộ đạo, đã định hình cách vững chắc cho sự phát triển của các bài giao hưởng và bộ tứ tấu đàn dây (violon, viola, cello và bass). Qua sự bảo trợ của Giáo Hội và việc khích lệ các hình thức phụng vụ, nhiều công trình tác phẩm vĩ đại được hình thành bởi các nhạc sĩ bậc thầy như Monteverdi ( mất năm1643), Vivaldi (mất năm 1741), Mozart (mất năm 1791) và Beethoven (mất năm 1827). Bản nhạc Đại Giao Hưởng  số 8 của Mahler (mất năm 1911) lấy chủ đề và nguồn cảm hứng từ bài thánh ca cổ xưa của Lễ Ngũ Tuần, Veni creator Spiritus.

9. Chỗ đứng của phụ nữ

Trái với định kiến thông thường trọng nam khinh nữ, nền văn minh Công Giáo coi trong và đề cao những phụ nữ nổi tiếng và có ảnh hưởng. Giáo Hội đã tôn vinh nhiều vị thánh nữ, kể cả những vị thánh nữ tiến sĩ gần đây của Giáo Hội, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu tuyệt vời, chẳng hạn như Thánh nữ Hilda (mất năm 680) (về sau trường học của Thánh nữ Hilda lập, được đặt tên là Oxford) và Chân Phước Hildegard von Bingen (mất năm 1179 ), là nữ tu viện trưởng và là một người uyên bác. Những phụ nữ Công giáo đi tiên phong trong lãnh vực chính trị có Hoàng hậu Matilda (mất 1167), nữ quận chúa Eleanor của Aquitaine, một người giàu có, quyền lực và nhân ái (mất năm 1204) và Nữ hoàng đầu tiên của nước Anh, Mary Tudor (mất năm 1558).

Công giáo cũng mang đến cho nền văn minh nhân loại nhiều nhà khoa học và giáo sư đầu tiên của thế giới là những phụ nữ: nữ giáo sư vật lý người Ý, Trotula của thành Salerno trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý người Ý, Dorotea Bucca (mất năm 1436), là người đã giữ ghế giáo sư y khoa tại Đại học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia thành Venice (mất năm1684), lần đầu tiên người phụ nữ nhận được một văn bằng Tiến sĩ Triết học (1678) và Maria Agnesi (d 1799), một triết gia, một nhà ngữ học và toán học là người phụ nữ đầu tiên được Đức Giáo Hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại Ý vào năm 1750.

By Philip Tran
Theo nguồn http://www.catholicherald.co.uk
____________________________________________
Chú thích

[1] CERN được bắt nguồn từ các từ viết tắt tiếng Pháp: Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire, một cơ thể thành lập năm 1952 với nhiệm vụ thành lập một tổ chức nghiên cứu vật lý cơ bản với tầm cỡ thế giới đặt ở châu Âu. (http://angelsanddemons.cern.ch/)

[2] Tác phẩm Majus Opus (Latinh có nghĩa là  "Đại công trình") là công trình quan trọng nhất của Roger Bacon (c. 1214–1294). Nó được viết bằng tiếng Latin trung cổ, theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clement IV, để giải thích những công việc mà Bacon đã thực hiện. Cuốn tổng luận dày 840 trang bàn về tất cả các khía cạnh của khoa học tự nhiên, từ ngữ pháp và logic cho đến toán học, vật lý, và triết học. Tác phẩm Bacon đã được gửi đến Đức Giáo Hoàng trong năm 1267, kèm theo một lá thư ông bày tỏ sự cống hiến đó, đã được tìm thấy bởi FA Gasquet tại Thư viện Vatican và đã được xuất bản vào năm 1897.

[3] Lịch Gregorian, còn được gọi là lịch phương Tây, hoặc lịch Kitô giáo, là lịch quốc tế, được cải cách từ lịch Julian kết hợp với chu kỳ của mặt trăng để tính ngày Lễ Phục Sinh. Nó được giới thiệu bởi Giáo hoàng Gregory XIII, mà sau này người ta dùng tên ngài để đặt tên cho lịch này. Lịch được cải cách, thông qua năm 1582 bởi một số quốc gia, và lịch này được dùng cho đến ngày nay.

[4] Bức tượng Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc (tiếng Bồ Đào Nha: Cristo Redentor) được làm bằng bê tông cốt thép kết hợp với đá, và được xây dựng giữa năm 1922 và 1931. Bức tượng đặt ở thành phố Rio de Janeiro, Brazil; được coi là một công trình nghệ thuật lớn thứ hai trên thế giới. Tượng cao 39,6 mét (khoảng 130 feet), bao gồm: bệ có chiều cao là 9,5 mét, hai cánh tay giang rộng 30 mét, nặng 635 tấn và được đặt tại đỉnh núi Corcovado cao 700 mét (khoảng 2.300 feet) trong rừng Vườn quốc gia Tijuca nhìn ra thành phố Rio de Janeiro. Bức tượng đã trở thành một biểu tượng Ki-tô Giáo của thành Rio de Janeiro và của nước Brazil.

[5] The Divine Comedy( Italian: Divina Commedia), được Dante Alighieri (1256–1308) viết vào khỏang 1308 cho đến trước khi ông ta chết 1321. bài thơ sử thi đồ sộ này được coi là trung tâm của văn học Ý , và là công trình vĩ đại nhất của văn học thế giới . Tầm nhìn và trí tưởng vô cùng phong phú cùng sự ngụ ngôn trong bài thơ của một tín hữu Công Giáo là một cái nhìn tột bậc về thế giới trung cổ cũng như sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo . Được thiết lập trên phương ngữ của tiếng Tuscan và viết theo chuẩn mực của tiếng Ý, bài sử thi này gồm hơn 14.000 dòng được chia làm 3 phần Inferno (Hỏa Ngục), Purgatorio (Luyện Ngục), và Paradiso (Thiên đàng).

[6] Cædmon (mất năm 680) là nhà thơ người Anh đầu tiên được thế giới biết đến. Cædmon cũng là một tu sĩ nhiệt thành và một nhà thơ đầy cảm hứng tôn giáo. Cædmon là một trong mười hai nhà thơ Anglo-Saxon được biết đến trong thời trung cổ. Công trình hiện còn lại của Cædmon, bài Cædmon’s Hymn, là bài thơ khen ngợi, vinh danh Thiên Chúa. Bài thơ là một trong những ví dụ chứng tỏ sự xuất hiện của tiếng Anh rất sớm

[7] Louis Braille, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1809 tại Coupvray (gần Paris), Pháp, mất ngày 6 tháng 1 năm 1852, là người phát minh ra kiểu chữ Braille dành cho người mù và người khiếm thị. Cha ông, ông Simon-René Braille, là thợ sản xuất yên và cương ngựa. Năm lên ba tuổi, Louis bị thương ở mắt trái do bị dùi đâm phải. Vết thương bị nhiễm trùng và lây sang mắt phải, khiến Braille bị mù hoàn toàn. Vào năm mười tuổi, ông giành được học bổng đi học tại Học viện Hoàng gia dành cho Thanh niên mù (ngày nay là Học viện Quốc gia dành cho Thanh niên mù) tại Paris. Ở trường, những đứa trẻ được học đọc các ký tự in nổi nhưng không thể học viết do các ký tự được tạo thành do những trang giấy ép lên sợi dây đồng.
Đến năm 13 tuổi, ông phát minh ra hệ thống các dấu chấm nổi, nhờ ý tưởng qua cuộc viếng thăm của ông Đại úy về hưu Charles Barbier của Serre, người đã phát triển một hệ thống chữ viết cho phép người ta trao đổi mệnh lệnh quân đội trong đêm tối. Hệ thống này dựa trên mười hai chấm, do đó nó khá phức tạp, còn hệ thống của Braille chỉ sử dụng sáu chấm. Braille còn cải tiến hệ thống của mình để viết được cả ký hiệu toán học và nhạc lý.
http://dcvxuanloc.net/vi/news/Chia-Se/NHUNG-CONG-TRINH-MA-GIAO-HOI-CONG-GIAO-CONG-HIEN-CHO-NHAN-LOAI-61/

tu phục của Hội Thánh Công giáo

tu phục và trang phục mặc thường ngày không phải lễ phục để dâng lễ, bài viết này xin giới thiệu 1 số tu phục nam của nam giáo sĩ và nam tu sĩ
Giáo triều
Đức Giáo Hoàng




Hồng Y





Giám mục




Đức ông

linh mục

chủng sinh học tại đại chủng viện

giáo sĩ tu sĩ các dòng tu
Order of Friars Preachers(dòng Anh em thuyết giảng hay còn gòi là dòng Đaminh).OP


Congregation of the Most Holy Redeemer( dòng Chúa cứu thế)C.Ss.R.


Society of Jesus( Dòng Tên)SJ, được coi là tinh hoa của giáo hội


Societas Verbi Divini( Dòng Ngôi Lời)SVD. đây là dòng nam truyền giáo quốc tế lớn nhất của giáo hội, không có tu phục nhất định, mà tùy theo từng quốc giá


Salesians of Saint John Bosco( Dòng Thánh Gioan Donbosco)SDB


Xaverian Missionary Fathers(Dòng Các Cha Truyền Giáo Xaverian)SX.

Congregation of the Blessed Sacrament(Dòng Thánh Thể)SSS.

Order of the Holy Cross(Dòng Thánh giá)OSCr.




Order of St. Benedict(Dòng Biển Đức)OSB. tại Việt Nam là đan viện Thiên An- Huế





gíao sĩ đội mũ Mitra là Đan viện phụ Têphanô Huỳnh Quang Sanh  bề trên giám tỉnh dòng Biển Đức( Thiên An-Huế)
Order of St. Augustine(Dòng Thánh Augustino)OSA.

Order of Cistercians(Dòng Xi-tô)O. Cist.


Congregation of the Legionaries of Christ( Dòng Các Cha Đạo Binh Chúa Kitô)LC.

Order of Friars Minor(dòng Phanxico)OFM.


dòng sư huynh trường Ki-tô hay còn gọi là dòng lasan

sẽ tiếp tục cập nhật
nếu coopy bài xin dẫn nguồn

http://vn.360plus.yahoo.com/truongminhdang1/article?new=1&mid=1378